Thebes, thành phố quan trọng nhất của Ai Cập cổ đại

15:39 | 27/12/2017
Thebes là một trong những thành phố quan trọng nhất của Ai Cập cổ đại. Hai vương triều thứ 11 và thứ 18 đã chọn Thebes làm thủ đô. Thebes nằm bên bờ đông của sông Nile và cách Địa Trung Hải 800km về phía Nam.

Thành phố này không chỉ nổi tiếng vì các hoạt động văn hóa, hành chính... trong thời Ai Cập cổ đại mà còn được Homer ca tụng trong tác phẩm Illiad của ông. Ngày nay, Thebes là một trung tâm khảo cổ cho Ai Cập học với những di tích nổi tiếng như Thung lũng các vị vua, đền Karnak, đền Luxor... cũng như các lăng mộ của các vị pharaon.

Một trong các di tích đó là đền Karnak - quần thể kiến trúc đền lớn nhất Ai Cập với nhiều cột đá, tượng khắc đá và tháp nhọn vuông. Ngôi đền này thờ thần Amon, thần gió và không khí, cùng với nữ thần Mut (vợ của Amon) và con trai là thần Mặt Trăng Cohens. Hai bức tượng Memnon mặc dù chỉ còn lại phần trên nhưng kích thước khổng lồ và tay nghề khắc đá vẫn gây ấn tượng lớn với hậu thế.

Pho tượng ở phía Tây thành phố thể hiện pharaon Ramesses II như một vị thần, cao gần 19m và nặng khoảng 1.000 tấn.

Trong suốt thời kỳ cực thịnh của đế chế Ai Cập (2730 - 2300 trước công nguyên), Thebes chưa có vai trò gì đáng kể. Nhưng từ khi Mentouhotep thống nhất lại được Ai Cập (khoảng thế kỷ XX trước công nguyên) dưới triều đại thứ XI thì Thebes nổi bật lên hàng đầu. Thebes trở thành trung tâm thờ bộ ba các thánh Amon, Mout, Khonsou và bắt buộc cả đế chế thờ bộ ba đó. Sau khi các Pharaon đánh đuổi được những người Michxot (năm 1600 trước công nguyên) và thành lập đế chế mới, Thebes trải qua mọt thời kỳ phồn thịnh (từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XI trước công nguyên). Chính vào thời gian này, người Ai Cập cổ đại đã xây dựng được đền đài Karnak cùng các hầm mộ ở thung lũng Đế Vương (Vallee des Rois). Pharaon Akhanaton đã dời Thebes đi lập thủ đô ở nơi khác, nhưng người kế vị ông là Pharaon Toutan Khamon khoảng 1354 - 1346 trước công nguyên) lại trở về Thebes.

Sau thời Ramses III (khoảng 1168 trước công nguyên), vương triều bị suy yếu và quyền lực chuyển sang tay các giáo sĩ Amon. Đến triều đại thứ XXI (khoảng 1085 đến 950 trước công nguyên) các Pharaon đóng đô ở Tanis, Bắc Ai Cập, còn các giáo sĩ Amon ở Thebes cai quản Nam Ai Cập. Như vậy, Thebes mất địa vị là thủ đô mà chỉ còn là một Trung tâm tôn giáo, về sau Thebes bị người Assyrie đánh chiếm và phá hủy vào năm 6664 trước công nguyên và bị lu mờ dần.

Ngày nay, Thebes trở thành di tích cổ lớn nhất Ai Cập với các khu Karnak, Luxor, Deirel Bahari, Deirein Medineh, Medinet Habou, Memmon, Ramesseum, thung lũng Đế Vương:

- Khu AI Karnak: Đây là tên một làng ở Thượng Ai Cập, được dùng để gọi phần phía Bắc của các tàn tích còn lại của Thebes cổ, ở hữu hạn sông Nile. Các tàn tích ở Karnak tạo thành một quần thể di tích khảo cổ học quan trọng trên thế giới. Khu này chiếm một diện tích khá lớn tuy nhà cửa, lâu đài, vườn tược ở quanh các khu đền đã bị hủy hoại hầu hết không còn dấu vết gì. Các đền ở đây tạo thành ba quần thể riêng biệt mỗi quần thể có tương rào bao quanh; từ Bắc xuống Nam là khu đền Montu, khu đền Amon và khu đền Mout được nốì liền với nhau bằng hành lang Nhân sư, hành lang này sau đó dẫn đến đền Louxor. Đền Amon chính gồm một số kiến trúc được xây dựng trong nhiều thời kỳ khác nhau. Kiến trúc nguyên thủy từ triều đại thứ XII (các đời vua từ 2000 đến 1792 trước công nguyên). Quần thể hiện còn di tích phần lớn có niên đại từ triều đại các Pharaon từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIII trước công nguyên. Việc xây dựng được bắt đầu với Amenophis Đệ nhất (1580 - 1553 trước công nguyên) và được Tutmoxyxi Đệ nhất (1530 - 1520 trước công nguyên) tiếp tục. Nhà vua này cho xây tường bao quanh và dựng thêm một tiền sảnh có cột. Bà Hoàng Hatshepsout (1520 - 1484) dựng thêm hai cột trụ nguyên khôi. Các Pharaon (1540 - 1483 trước công nguyên) đời sau còn mở rộng thêm nhiều đền khác. Phần nổi tiếng nhất là đại sảnh đường cột đứng do Hôremhep (1343 - 1312 trước công nguyên) cho xây dựng. Trong vòng bao của đền Amon, ở phía Bắc đền lớn, là đền thánh Pơta (kiến trúc của thời đại Trung đế chế (2065- 1785 trước công nguyên), còn ở phía Nam là ngôi đền rất đẹp thời Khonsou và Ramses Đệ tam. Tổng thể các di tích ở Karnak hiện đang bị mực nước nâng cao của sông Nil đe dọa, phát sinh từ việc xây dựng nhiều đập trên sông Nile.

- Khu Louxor: Là tên một thị trấn ở Thượng Ai Cập, nằm ở hữu ngạn sông Nile, nơi có các di tích ở phần phía Nam của thành Thebes cổ. Đền ở Louxor thờ thánh Amon. Mỗi năm một lần, Thánh Amon lại dời Karnak ngược dòng sông đến Louxor. Việc xây dựng đền được bắt đầu từ đời Pharaon Amenophis Đệ tam (1408 - 1372 trước công nguyên) nơi đây đã có sân các cột trụ, đại trụ, đại sảnh với những hàng, cột đứng. Đên đời Ramses Đệ nhị (1301 - 1235 trước công nguyên), lại tạo thêm một cái sân có cổng vòm, phía trước có trồng một trụ tháp, sáu tượng lớn và hai cột trụ đá nguyên khôi (một trong hai cột trụ này đã được đưa vê Pháp từ năm 1831 và hiện được trồng ở Quảng trường Đồng Tâm - Place de la Concorde ở Paris). Ngôi đền này có một hành lang Nhân sư nối với đền Karnak.

- Khu Deirel Bahari: Là di tích khảo cổ Ai Cập ở tả ngạn sông Nile, đối diện với Karnak, trong một thung lũng rộng. Hoàng hậu Hatshepsout cho xây dựng (khoảng năm 1500 trước công nguyên), một phần được đẽo đục vào núi, ngôi đền gồm ba tầng được nốì với nhau bằng một đường lên xuống có bậc đá, ép vào vách núi, và có những cổng vòm được trang trí bằng những bức hoành tráng nhiều màu sắc rất đẹp, độc đáo. Tầng thứ hai có đường vào các tháp thờ Anubizi và Hato (Thần Ai Cập). Gần đó có các đền thờ các Pharaon Mentouhotep Đệ nhất và Tút mosyxi Đệ tam.

- Khu Deirel Medineh: Là di tích khảo cổ ở tả ngạn sông Nile, đốì diện với Louxor. Di tích này nằm ở phía Nam Deirel Bahari trong một thung lũng hẹp nơi này có tàn tích của một làng cổ với nhiều ngôi mộ của những người thợ nằm trong thung lũng cổ Đế Vương (1314 - 1100 trước công nguyên). Và nơi này còn có một ngôi đền nhỏ được xác định niên đại vào thời Ptolemee (thế kỷ III đến thế kỷ I trước công nguyên).

- Khu Medinet Habou: Là phần phía Nam của miền Tây thành Thebes cổ. Kiến trúc chủ yếu là ngôi đền Pamsès III (1198 - 1166 trước công nguyên). Mặt bằng của ngôi đền này gần giông đền Ramses II. Tượng đền được trang trí nhiều bức hoành tráng chạm nổi mô tả các trận chiến của nhà Vua với người Liby và với các bộ tộc miền biển. Phía Nam của đền có di tích một bức tường bao hình chữ nhật, một hồ thưởng ngoạn của lâu đài đời Amenophis Đệ tam (1408 - 1372 trước công nguyên).

- Memnon: Là tên mà người Hy Lạp và người Roma đặt cho hai tượng đá khổng lồ của Amenophis III, đặt ở trước đền thời Pharaon này ở gần Thebes. Do một cuộc động đất xảy ra năm 27, pho tượng phía Bắc bị phá hủy một phần.

- Ramesseum: Là tên gọi đền thờ Ramses II (1300 - 1235 trước công nguyên), ở phía Đông Nam một ngọn đồi thuộc phần phía Tây thành cổ Thebes. Kiến trúc ngày nay đã hỏng nhiều, chỉ còn một ít di tích: thân một pho tượng khổng lồ của Ramses II, và một bức chạm khắc nổi rất hoành tráng mô tả một trận đánh và kho lưu trữ của đền được xây bằng gạch cổ còn khá nguyên vẹn.

- Thung lũng Đế Vương: Là khu di tích ở Tây Bắc thành cổ Thebes, sau các ngọn đồi Deirel Bahari; mộ chôn các Pharaon thuộc các triều đại XVIII, XIX và XX (1530 - 1085 Ramesseum). Các ngôi mộ Thebes được đào ở sườn một ngọn đồi hoang, gồm một đường hầm dài dốc thoải mái, chia thành ba ngăn bằng những đoạn hầm hẹp lại, ở các đoạn này có một số không nhất định có các ngăn đào lõm vào vách, đường hầm dẫn đến một hay nhiều gian có cột chống đỡ trần, ớ ngăn cuối cùng có mộ đá đặt ướp xác của nhà Vua, còn ở các gian bên cạnh có các đồ dùng trong nhà mà người chết có thể dùng đến ở thế giới bên kia. Tường các gian được trang trí bằng những bức tranh mô tả vị Pharaon đó trước các vị thần linh ở cõi vĩnh hằng. Đến nay, người ta đã tìm được 58 khu mộ như vậy. Tuy nhiên chỉ có ngôi mộ của Toutan Khamon (1354 - 1343 Ramesseum) là còn nguyên vẹn. Các ngôi mộ đẹp nhất là mộ của Xethi Đệ nhất (1312 - 1300 trước công nguyên) (mộ số 17) và mộ của Amenophis Đệ nhị (1450 - 1425 trước công nguyên) (mộ số 35)...

Thành phố cổ Thebes và các di tích khảo cổ tại đó đã được UNESCO công nhận là Di sản thế giới vào năm 1979.

Cũ hơn Mới hơn