Điều đặc biệt thú vị là ở hai bờ sông Hồng thuộc hai tỉnh Nam Định và Thái Bình, mỗi bên đều có một ngôi chùa cổ, nằm đối diện nhau, cùng xây một thời, tên nôm đều gọi là chùa Keo, tên chữ là Thần Quang Tự, cùng thờ đức Thánh Thiền sư Không Lộ thời Lý.
Chùa Keo thượng ở làng Dũng Nhuệ (nay là xã Duy Nhất), huyện Vũ Thư, Thái Bình, ở về phía tả ngạn sông Hồng, còn chùa Keo hạ ở làng Hành Cung (nay là Hành Thiện), xã Xuân Hồng, huyện Xuân Thủy, Nam Định ở về phía hữu ngạn. Tại miền đất này, cách nay gần 1000 năm, triều Lý Thánh Tông đã cho xây nhiều đền đài, cung điện... Nhiều chùa chiền mọc lên, trong đó có chùa Nghiêm Quang được coi là một danh thắng của Đại Việt thời bấy giờ.
Đến năm 1167, đời Lý Anh Tông đã cho đổi tên chùa Nghiêm Quang thành Thần Quang. Chùa Thần Quang nằm trên đất ấp Keo (gồm hai làng: Dũng Nhuệ và Hành Cung), huyện Giao Thủy, nên nhân dân gọi nôm na là chùa Keo. Đến năm Tân Hợi (1611), một trận lũ lụt lớn làm lở đất đá chôn vùi nhiều đền đài, cung điện và các chùa chiền, trong đó có chùa Thần Quang đã vĩnh viễn lùi vào quá khứ, khép lại một thắng tích huy hoàng sau trên 500 năm tồn tại. Sau sự kiện đó, dân ấp Keo gồm hai làng phải dời đi hai nơi. Làng Dũng Nhuệ dời sang tả ngạn sông Hồng (nay thuộc Thái Bình) lập lên làng Dũng Nhuệ, còn dân Hành Cung dời về phía Đông Nam hữu ngạn sông Hồng lập ấp xây chùa. Đến đời Minh Mạng (1820-1840), làng Hành Cung đổi thành làng Hành Thiện. Để phân biệt với chùa Keo của làng Dũng Nhuệ (Thái Bình), nhân dân Hành Thiện gọi chùa làng mình là chùa Keo Hành Thiện.
Chùa Keo Hành Thiện nằm trên một khu đất rộng chừng 5 mẫu, giáp sông Hồng. Trước chùa có hồ bán nguyệt nước trong xanh. Chùa gồm 13 toà rộng, dãy dài gần 121 gian, nối tiếp nhau. Trước chùa là gác chuông theo kiểu chồng rường, hai tầng, kết hợp hài hoà cấu trúc của tam quan nội năm gian, cao 7,50m. Mái cong, phía dưới là tám đại trụ và 16 cột quân, đặt trên đá tảng có chạm khắc hoa văn cánh sen nở. Qua hai cửa tả, hữu của tam quan, có hai con đường lát gạch, kế liền là hai dãy hành lang, mỗi dãy gồm 40 gian. Điều đặc biệt là các nhà kiến trúc thời Hậu Lê có một lối kiến trúc rất đăng đối. Trước hết phải tạo ra được một kiến trúc trung tâm nổi bật, rồi các kiến trúc phụ trợ khác mới được bố trí đăng đối qua trục thần đao. Cụm kiến trúc trung tâm của chùa Keo Hành Thiện là toà tiền đường năm gian mái cong, toà đệ nhị ba gian, toà thờ Phật và ba toà sau thờ Thánh tổ Thiền sư Không Lộ. Điều đặc biệt là trên tất cả các thành phần kiến trúc được các nhà điêu khắc trang trí chạm khắc rất tinh vi. Trong đó đáng chú ý là trên ba bộ cánh cửa gồm mười cánh được chạm khắc thể hiện mười đề tài khác nhau như: long cuốn thủy, ly ngậm ngọc, phượng ngậm cành hoa, tứ linh, tứ quý, nghê đội nóc đao, vân mây uốn lượn... Sau toà Phật là đền Thánh thờ Thiền sư Không Lộ với ba toà quy mô được xây theo kiểu “thượng bó cuốn, hạ kẻ bẩy”. Nội thất được chạm khắc hoa văn có tượng thiếu nữ. Cuối cùng là mười gian nhà tổ, nhà sàn. Trong chùa hiện còn lưu giữ nhiều di vật cổ có giá trị của thế kỷ XVII, thời Hậu Lê, đó là án thư, sập thờ, tượng pháp, nhiều chuông, khánh, văn bia cổ, hoành phi câu đối, sách chữ Hán nói về lịch sử chùa Keo.