Lê Quý Đôn là nhà bác học lỗi lạc của Việt Nam vào thế kỷ XVIII. Cụm di tích lưu niệm danh nhân Lê Quý Đôn thuộc thôn Đồng Phú, xã Độc Lập, huyện Hưng Hà, cách thành phố Thái Bình 35km về phía Bắc. Lê Quý Đôn nguyên tên là Lê Danh Phương, tự là Doãn Hậu, hiệu Quế Đường, sinh ngày 5 tháng 7 năm Bính Ngọ (2-6-1726), ở làng Diên Hà, trấn Sơn Nam Hạ, nay là thôn Đồng Phú, xã Độc Lập, huyện Hưng Hà. Thuở nhỏ Lê Quý Đôn đã nổi tiếng thần đồng. Năm 1739, ông theo cha lên kinh đô học thầy là Tiến sĩ Lê Hữu Kiều. Năm 18 tuổi thi Hương đậu Giải nguyên, ở nhà dạy học và viết sách. Năm 27 tuổi, thi Hội, đậu đầu, thi Đình đậu Bảng nhãn. Ông từng làm việc tại Viện Hàn Lâm, Ban Toản Tu Quốc sử, đi liêm phóng, tham gia việc binh, đi sứ Trung Quốc... Được thăng các chức: Hàn Lâm Viện Thừa chỉ, Tư nghiệp Quốc Tử Giám, Quốc sử Tổng Tài, Hiệp Trấn... Năm 1784, được thăng Thượng thư Bộ Công, tước Nghĩa Phái hầu. Ông mất ngày 1-6-1784 tại làng Nguyên Xá, huyện Duy Tiên, Hà Nam (quê ngoại). Sự nghiệp sáng tác của Lê Quý Đôn hết sức đồ sộ, khoảng 40 bộ sách bao quát hầu hết các tri thức đương đại như: sử học, thơ văn, triết học, nông học, xã hội... Trong đó đáng chú ý là bộ Vân Đài loại ngữ được các nhà khoa học đánh giá như một bộ Bách khoa thư Việt Nam. Khu từ đường: gồm cổng vào có đề năm chữ Hán: “Lê Tướng công cổ trạch” (nhà cũ của Tướng công họ Lê, tức là nhà của Tiến sĩ Lê Trọng Thứ thân sinh ra Bảng Nhãn Lê Quý Đôn). Từ đường gồm hai toà, mỗi toà ba gian, một bên là bia: “Hà Quốc công bi ký” được làm vào năm Tự Đức thứ 12 (1860), do Cử nhân Phạm Chi Hương, cháu ngoại Lê Trọng Thứ soạn. Một bên là bia ghi tiểu sử nhà bác học Lê Quý Đôn và bài lưu bút của nguyên Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Đỗ Mười khi về thăm từ đường ngày 16-2-1996. Tấm bia này do gia tộc và Bảo tàng Thái Bình dựng tháng 1-1999.